Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng

Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của vua Trần Nhân Tông là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học thời Trần, thể hiện sâu sắc tinh thần yêu thiên nhiên và lòng nhân ái của tác giả. Bài thơ không chỉ mang vẻ đẹp hài hòa giữa cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn con người, mà còn phản ánh một triết lý sống giản dị, gần gũi. 

Việc phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng giúp ta hiểu rõ hơn về tư duy nghệ thuật độc đáo của Trần Nhân Tông, đồng thời khám phá được những giá trị nhân văn cao đẹp trong từng câu chữ. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về nội dung và ý nghĩa của bài thơ này qua bài viết dưới đây!

Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng – Mẫu 1

“Thiên Trường vãn vọng” là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đặc sắc, thể hiện sâu sắc tinh thần nhân đạo của vua Trần Nhân Tông.

Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên

Ở hai câu thơ đầu, tác giả phác họa khung cảnh làng quê yên bình, ấm áp dưới ánh hoàng hôn. Khi chiều buông, ánh nắng nhạt dần, cũng là lúc những căn bếp trong làng đỏ lửa chuẩn bị bữa tối. Khói bếp hòa quyện với làn sương chiều tạo nên một khung cảnh mờ ảo, thơ mộng như trong giấc mơ. Bức tranh làng quê ấy không chỉ mang đến cảm giác ấm cúng, thanh bình mà còn gợi lên sự sung túc, no đủ của người dân, khi mọi nhà đều chuẩn bị bữa cơm tối, không ai phải chịu cảnh thiếu thốn.

Qua hình ảnh làng quê giản dị, tác giả đã gửi gắm tình yêu thương, sự quan tâm chân thành của một vị vua đối với con dân và quê hương. Khung cảnh ấy không chỉ đẹp mà còn chứa đựng triết lý sống giản dị, gần gũi và sâu sắc.

Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi há điền.

Trong hai câu thơ cuối, tác giả hướng tầm nhìn ra cánh đồng lúa phía sau làng, nơi thiên nhiên và con người hòa quyện. Trên những con đường nhỏ, các cậu bé mục đồng ung dung dắt trâu về nhà sau một ngày chăn thả. Khi bóng người khuất dần, cánh đồng trở lại là nơi của tự nhiên. Những cánh cò trắng thanh thoát bay lượn, đáp xuống đồng tìm mồi lúc chiều tàn.

Tác giả khéo léo lồng ghép hình ảnh mục đồng – biểu tượng của tuổi thơ, và đôi cò trắng – biểu tượng của tình yêu đôi lứa, để nhấn mạnh sự quan tâm của ông đến cuộc sống của người dân. Vua Trần Nhân Tông hiểu rằng những gia đình bình dị chính là nền tảng vững chắc làm nên làng quê và cả quốc gia.

Qua hình ảnh được khắc họa trong bài thơ, người đọc cảm nhận rõ tình yêu thương, sự quan tâm sâu sắc và niềm tự hào của nhà vua đối với giang sơn mình cai trị. Đồng thời, bài thơ còn thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của ông dành cho những con người lao động mộc mạc, chân thành.

Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng – Mẫu 2

Thiên Trường vãn vọng, còn được gọi với tên Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, là một tác phẩm thơ nổi tiếng của thi sĩ Trần Nhân Tông.

Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, là một sáng tác mẫu mực và tiêu biểu cho thể loại này. Tác phẩm đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà văn, nhà thơ bởi vẻ đẹp nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc mà nó mang lại.

Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên

Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã khéo léo vẽ nên một bức tranh làng quê thanh bình và đầy chất thơ. Toàn cảnh ngôi làng, từ đầu làng đến cuối làng, được bao phủ bởi làn khói chiều mờ ảo. Đây là khói bếp từ những căn bếp đốt rơm khô, bay qua ống khói và tan dần vào không trung. Làng quê yên bình, nhà nhà đỏ lửa nấu cơm tối, cho thấy cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân.

Ánh hoàng hôn vàng cam nhuộm lên khung cảnh, xuyên qua làn khói bảng lảng, tạo nên một không gian huyền ảo, giống như chốn bồng lai tiên cảnh. Điệp từ bán được lặp lại hai lần, diễn tả sự bối rối, ngỡ ngàng của tác giả trước vẻ đẹp khó phân định, vừa thực vừa hư của làng quê trong buổi chiều tà.

Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi há điền

Giữa khung cảnh mơ màng ấy, hình ảnh chú bé mục đồng thong dong dẫn trâu về nhà hiện lên, mang đến cảm giác gần gũi, chân thực và ấm áp. Cậu bé ấy trở về mái ấm của mình, nơi căn bếp đang đỏ lửa chờ đợi. Tiếng sáo mục đồng vang lên, không chỉ dẫn đường cho trâu mà còn như một giai điệu báo hiệu sự bình yên của làng quê. Đồng thời, âm thanh ấy cũng như lời mời gọi những cánh cò trắng từ xa bay xuống cánh đồng.

Hình ảnh đôi cò trắng bay song song ở câu thơ cuối mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Đôi cò không đơn độc, mà là hình ảnh của sự sum vầy, đại diện cho tình yêu đôi lứa, cho dòng giống và sự tiếp nối của các thế hệ nông dân. Đó chính là nền tảng của những gia đình nhỏ bé, làng quê yên bình, và xa hơn nữa, là sự phồn thịnh của cả quốc gia.

Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông là một bài thơ đầy cảm xúc sâu lắng. Qua bức tranh làng quê đầm ấm và bình yên, tác giả thể hiện niềm tự hào trước sự no đủ, hạnh phúc của người dân, đồng thời gửi gắm những khát vọng về sự phát triển bền vững và thịnh vượng hơn nữa của đất nước qua hình ảnh đôi cò trắng – biểu tượng của tình yêu và sự sinh sôi.

Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng – Mẫu 3

Trần Nhân Tông (1258 – 1308) là vị vua anh hùng, đồng thời là một thi sĩ tài năng của Đại Việt vào thế kỷ XIII. Ông nổi tiếng với trí thông minh, kiến thức uyên bác, tài thao lược và sự tinh tế trong nghệ thuật.

Tên tuổi của ông gắn liền với những chiến thắng vẻ vang của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai và thứ ba.

Trong số các bài thơ chữ Hán mà Trần Nhân Tông để lại, có hai tác phẩm nổi tiếng viết về Thiên Trường, vùng đất “phát nghiệp đế vương” của nhà Trần: “Hạnh Thiên Trường hành cung” và “Thiên Trường vãn vọng”.

Thiên Trường, một trong 12 lộ thời Trần, nay thuộc thành phố Nam Định, từng là Thái ấp của vua chúa nhà Trần. Vùng đất này không có những cung điện xa hoa, tráng lệ, nhưng mang vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của làng quê Việt.

“Thiên Trường vãn vọng” được sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Tác phẩm tái hiện khung cảnh thôn quê vùng Thiên Trường qua góc nhìn và cảm xúc của tác giả. Đó là một cảm giác lắng đọng, man mác và bâng khuâng, như ôm trọn lấy vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống bình dị nơi đây.

“Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.”

Hơn 60 năm trước, cụ Ngô Tất Tố đã có bản dịch rất xuất sắc bài thơ này.

Hai câu thơ đầu vẽ nên khung cảnh làng quê Thiên Trường trong ánh chiều tà. Các cụm từ “thôn Hậu thôn Tiền” và “bán vô bán hữu” tạo nên sự cân đối, hài hòa về ngôn ngữ, gợi lên hình ảnh những xóm thôn nối tiếp nhau, đông đúc và trù phú. 

Trong ánh hoàng hôn nhạt nhòa, cảnh xóm làng “trước xóm sau thôn” mờ ảo trong làn khói lam chiều, như được bao phủ bởi sự mênh mang và thơ mộng. Đó là khói bếp, khói sương lơ lửng trên những mái nhà gianh sau lũy tre làng, tạo nên một không gian bình yên và êm đềm.

Chỉ với ba nét bút chọn lọc, tác giả đã phác họa một không gian nghệ thuật đầy chất thơ của làng quê trong buổi chiều tàn. Cảnh sắc được thể hiện qua lối tả ít mà gợi nhiều, với nét vẽ thanh thoát, nhẹ nhàng. 

Không gian làng quê rộng lớn, tĩnh lặng, vừa thực vừa mơ. Ngoại cảnh và tâm cảnh hòa quyện, khiến người đọc cảm nhận như thi sĩ đang thả hồn mình vào cảnh vật, lặng ngắm làng quê thân thương một cách say mê. So sánh “đạm tự yên” (mờ nhạt như khói) là một hình ảnh thi vị, gợi lên hồn quê man mác đầy cảm xúc:

“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.”
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không).

Hai câu thơ cuối đưa người đọc trở về với khung cảnh đồng quê gần gũi và thân thuộc. Trên những con đường làng, đàn trâu nối đuôi nhau trở về trong âm thanh réo rắt, hồn nhiên của tiếng sáo mục đồng. 

Hình ảnh từng đôi cò trắng bay liệng, nối nhau hạ xuống cánh đồng thêm phần sống động. Dù bài thơ không nhắc đến màu xanh của lúa hay mùi hương đồng nội, người đọc vẫn cảm nhận được vẻ tươi mới và sức sống tràn trề của quê hương.

Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, thanh tao, vừa gợi màu sắc vừa tràn đầy sức sống. Bút pháp “điểm nhãn” và cách lấy động để tả tĩnh của tác giả đã tạo nên một bức tranh đồng quê bình dị nhưng vô cùng ấn tượng và sâu sắc.

“Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền”

(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

Bài thơ thấm đượm tình quê và hồn quê chan chứa, dạt dào. Vùng Thiên Trường thuở ấy, dù đường sá nhộn nhịp ngựa xe, có nhiều cung điện lộng lẫy của vua chúa và hoàng tộc nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không lựa chọn miêu tả lầu son gác tía hay ngai vàng nguy nga tráng lệ. Thay vào đó, ông chỉ tập trung khắc họa cảnh sắc thiên nhiên và làng quê yên bình.

Điều này thể hiện rõ tâm hồn thi sĩ của ông – một tâm hồn giàu tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Sự bình dị, dân dã và hồn nhiên chính là nét đặc trưng trong phong cách và hồn thơ của vị vua anh hùng này. Cảm nhận ấy càng trở nên rõ ràng khi ta đọc bài thơ “Hạnh Thiên Trường hành cung” (Ngự chơi hành cung Thiên Trường).

“Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng Trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua.”

Khung cảnh buổi chiều trong bài “Hạnh Thiên Trường hành cung” rõ ràng là cảnh chiều thu, điều này dễ nhận thấy. Tuy nhiên, trong bài “Thiên Trường vãn vọng”, cảnh chiều được miêu tả là chiều xuân hay chiều thu vẫn rất khó xác định. 

Những gì cảm nhận được là một buổi chiều yên bình, xóm làng phủ mờ trong sương khói và ánh tà dương dịu nhẹ. Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật hòa quyện, đồng hiện, khiến ta tin rằng Trần Nhân Tông đã viết bài “Thiên Trường vãn vọng” sau năm 1288, khi giặc Nguyên – Mông đã bị đánh bại, và Đại Việt bước vào thời kỳ thanh bình, hạnh phúc.

Bài thơ tứ tuyệt “Thiên Trường vãn vọng” là một bức tranh quê tuyệt đẹp, với sự phối hợp hài hòa giữa ánh sáng và bóng tối, vừa mờ nhạt vừa rực rỡ, tràn đầy sức sống. 

Bút pháp nghệ thuật cổ điển được thể hiện qua sự tài hoa của tác giả, mang đến một tâm hồn thanh cao và yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, tình yêu đối với quê hương được thể hiện qua những hình ảnh ấm áp và sống động, gợi nên cảm giác liên tưởng phong phú.

Kỳ diệu thay, bài thơ đã vượt qua hơn bảy trăm năm lịch sử, nhưng mỗi khi đọc lại, vẫn mang đến cho người đọc những rung động khó quên. Hình ảnh cánh cò trắng bay lượn trong bài thơ như vẫn chấp chới trong ánh chiều quê, và hơn thế nữa, còn lưu dấu trong tâm hồn mỗi người. Đó chính là giá trị đích thực của thơ!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *